Chính phủ ban hành quy định mới về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức
Ngày 20/9/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định 71/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Theo
đó, về nguyên tắc xử lý kỷ luật, Nghị định bổ sung quy định: Quyết định xử lý
kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức có hiệu lực 12 tháng kể từ ngày có hiệu
lực thi hành; đối với trường hợp bị kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh
cáo, giáng chức, cách chức thì việc quy hoạch, bổ nhiệm ứng cử vào chức vụ cao
hơn, bố trí công tác cán bộ áp dụng hiệu lực theo quy định của cơ quan có thẩm
quyền. Trường hợp đã có quyết định kỷ luật về đảng thì hiệu lực của quyết định
xử lý kỷ luật hành chính tính từ ngày quyết định kỷ luật về đảng có hiệu lực.
Trong thời gian này, nếu không tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật đến mức
phải xử lý kỷ luật thì quyết định xử lý kỷ luật đương nhiên chấm dứt hiệu lực
mà không cần phải có văn bản về việc chấm dứt hiệu lực.
Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức
tiếp tục có hành vi vi phạm đến mức bị xử lý kỷ luật trong thời gian đang thi
hành quyết định xử lý kỷ luật thì xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị
định này. Quyết định kỷ luật đang thi hành chấm dứt hiệu lực kể từ thời điểm
quyết định kỷ luật đối với hành vi vi phạm pháp luật mới có hiệu lực. Các tài
liệu liên quan đến việc xử lý kỷ luật và quyết định kỷ luật phải được lưu giữ
trong hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức. Hình thức kỷ luật phải ghi vào lý
lịch của cán bộ, công chức, viên chức.
Cán bộ, công chức, viên chức có hành vi
vi phạm trong thời gian công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị cũ đến khi chuyển
sang cơ quan, tổ chức, đơn vị mới mới phát hiện hành vi vi phạm đó và vẫn còn
trong thời hiệu xử lý kỷ luật thì cấp có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức, đơn
vị mới thực hiện việc xem xét xử lý kỷ luật và áp dụng hình thức kỷ luật theo
quy định pháp luật tương ứng với vị trí cán bộ, công chức, viên chức hiện đang
đảm nhiệm.
Nghị định cũng sửa đổi khoản 1, khoản 2,
khoản 4 và khoản 6 Điều 2 nguyên tắc xử lý kỷ luật. Cụ thể, việc xử lý kỷ luật
phải bảo đảm khách quan, công bằng; công khai, nghiêm minh; chính xác, kịp
thời; đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Mỗi hành vi vi phạm chỉ bị xử lý một
lần bằng một hình thức kỷ luật. Trong cùng một thời điểm xem xét xử lý kỷ luật,
nếu cán bộ, công chức, viên chức có từ 02 hành vi vi phạm trở lên thì xem xét,
kết luận về từng hành vi vi phạm và quyết định chung bằng một hình thức cao
nhất tương ứng với hành vi vi phạm. Khi xem xét xử lý kỷ luật phải căn cứ vào
nội dung, động cơ, tính chất, mức độ, hậu quả, nguyên nhân vi phạm, hoàn cảnh
cụ thể; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; thái độ tiếp thu và sửa chữa; việc
khắc phục khuyết điểm, vi phạm, hậu quả; các trường hợp khác theo quy định của
Đảng và của pháp luật được tính là căn cứ để xem xét miễn kỷ luật hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm.
Cán bộ, công chức, viên chức bị xử lý kỷ
luật về đảng thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày công bố quyết định kỷ luật
về đảng, cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện quy trình xử lý kỷ luật hành
chính (nếu có), trừ trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật quy định tại Điều 3
Nghị định này.
Hình thức kỷ luật hành chính phải bảo
đảm tương xứng với kỷ luật về đảng. Trường hợp bị xử lý kỷ luật về đảng bằng
hình thức cao nhất thì cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ báo cáo cấp có thẩm
quyền xử lý kỷ luật xem xét, quyết định xử lý kỷ luật hành chính bằng hình thức
cao nhất nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 13, Điều 14, Điều
19 Nghị định này; nếu không thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì báo cáo
cấp có thẩm quyền quyết định xử lý kỷ luật bằng hình thức cách chức đối với cán
bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; hạ bậc lương đối với
công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc cảnh cáo đối với viên chức
không giữ chức vụ quản lý.
Nguyễn Xuân